Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát               Nam Mô A Di Đà Phật            Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát


Chú Đại Bi
-------o0o-------
Nam mô đại bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.

Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam-mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Chúng sinh, khổ kia không lường. Ta sẽ xin làm trời, đất, vì hạn làm mưa nhuần, vì nổi trôi làm chiếc bè, đói cho ăn, khát cho uống, rét cho ấm, nóng cho mát, vì người bệnh cho thuốc, vì chỗ tối tăm cho ánh sáng. Nếu có đời dơ dục, gặp thời điên đảo, Ta sẽ ở trong cõi đó thành Phật, tế độ chúng sinh ấy.
Phật Thích Ca

Website đang trong quá trình xây dựng.

Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh

Hán Dịch: Khuyết danh
Việt dịch:  Thích Chánh Lạc
Hiệu-chú: Tuệ Sỹ  – Đức Thắng

Nghe như vầy

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ. Trong nước, có người phụ nữ có con trai tên là Vô Diên do đó được gọi là Mẹ Vô Diên. Phật cùng năm trăm Tỳ-kheo đến nhà bà Vô Diên, ngồi thọ trai trên điện. Sau khi thọ trai, có khoảng mười Tỳ-kheo, ở chỗ khuất, bàn luận với nhau: Phật là bậc chúng ta tôn kính, thần uy vô cùng, biến hóa tự tại theo ý muốn, lẽ nào Ngài không biết Phật quá khứ và Phật tương lai, với tuổi thọ, tên họ cha mẹ, bao nhiêu đệ tử, sự tu hành và giáo pháp của các Ngài.      

Phật bằng thiên nhĩ nghe các Tỳ-kheo bàn luận về việc này; Ngài đến hỏi:

“Này các Tỳ-kheo, các thầy bàn luận về việc gì?”

Các Tỳ-kheo thưa:

“Chúng con nghĩ rằng Phật có thần thông tối thượng, đạo đức vi diệu, hiểu biết cao xa, không ai có thể hơn Ngài được. Phật biết rõ chư Phật quá khứ, chư Phật tương lai, với tuổi thọ, tên họ cha mẹ, bao nhiêu đệ tử, sự tu hành và ý chí giáo lệnh.”

Phật nói:

“Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy. Các thầy hành pháp Sa-môn, nên nhớ nghĩ những việc lành như vậy. Các thầy muốn nghe tên họ chư Phật quá khứ với cha mẹ, đệ tử các Ngài không?”

Các Tỳ-kheo thưa:

“Chúng con muốn nghe.”

Phật dạy:

“Các Thầy hãy lắng nghe! Đức Phật thứ nhất tên Duy-vệ, nhập Niết-bàn đến nay đã chín mươi mốt kiếp. Phật thứ hai tên Thức, nhập Niết-bàn đến nay cũng đã ba mươi mốt kiếp. Phật thứ ba tên Tùy-diệp, nhập Niết-bàn đến nay đã ba mươi mốt kiếp. Trong kiếp Phi-địa-la sẽ có một ngàn Phật, thứ nhất tên Phật Câu-lâu-tần, đức Phật thứ hai tên Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, thứ ba tên Phật Ca-diếp, thứ tư là Ta, Phật Thích-ca Văn-ni.   

“Phật Duy-vệ họ Câu-lân. Phật Thức cũng họ Câu-lân. Phật Tùy-diệp cũng họ Câu-lân. Phật Câu-lâu-tần họ Ca-diếp. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, cũng họ Ca-diếp, Phật Ca-diếp cũng họ Ca-diếp. Nay, Ta, Phật Thích-ca Văn-ni họ Cù-đàm.

“Phật Duy-vệ dòng Sát-lợi. Phật Thức cũng dòng Sát-lợi. Phật Tùy-diệp cũng dòng Sát-lợi. Phật Câu-lâu-tần dòng Bà-la-môn. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni cũng dòng Bà-la-môn. Phật Ca-diếp cũng dòng Bà-la-môn. Đến nay, Ta, Phật Thích-ca Văn-ni dòng Sát-lợi.

“Phật Duy-vệ, cha tên Bàn-biểu, vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Bàn-đầu-mạt-đà, trị vì đất nước tên Sát-mạt-đề.

“Phật Thức, cha tên A-luân-noa, vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Ba-la-ha-việt-đề, trị vì đất nước tên A-lâu-na-hòa-đề.

“Phật Tùy-diệp, cha tên Tu-ba-la-đề-hòa, vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Da-xa-việt-đề, trị vì đất nước tên A-nâu-ưu-ma. Phật Câu-lâu-tần, cha tên A-chi-vi-đâu, dòng Ba-la-môn; mẹ tên Tùy-xá-ca. Quốc gia tên Luân-ha-lợi-đề-na. Quốc vương hiệu Tu-ha-đề.

“Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, cha tên Gia-thiểm-bát đa, dòng Bà-la-môn; mẹ tên Uất-đa-la, nước tên Sai-ma-việt-đề. Quốc vương hiệu Sai-ma.

“Phật Ca-diếp, cha tên A-chi-đạt-da, dòng Bà-la-môn; mẹ tên Đàn-na-việt-đề-da, nước hiệu Ba-la-tư. Quốc vương hiệu Kỳ-thậm-đọa.

“Nay, Ta Phật Thích-ca Văn-ni, cha tên Duyệt-đầu-đàn, vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Ma-ha Ma-da. Nước tên Ca-duy-la-vệ, Đại vương đời trước tên Bàn-đề.

“Phật Duy-vệ thọ tám vạn tuổi. Phật Thức thọ bảy vạn tuổi. Phật Tùy-diệp thọ sáu vạn tuổi. Phật Câu-lâu-tần thọ bốn vạn tuổi. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thọ ba vạn tuổi. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi. Ta, Phật Thích-ca Văn thọ trên dưới một trăm tuổi.

“Con Phật Duy-vệ tên Tu-viết-đa-kiện-đa. Con Phật Thức tên A-đâu-la. Con Phật Tùy-diệp tên Tu-ba-la-viết. Con Phật Câu-lâu-tần tên Uất-đa-la. Con Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Đọa-di-đa-tiên-na. Con Phật Ca-diếp tên Sa-đa-hòa. Nay, con Ta, Phật Thích-ca Văn-ni tên La-vân.

“Phật Duy-vệ đắc đạo thành Phật dưới cây Ba-đa-la. Phật Thức đắc đạo thành Phật dưới cây Phân-đồ-lợi. Phật Tùy-diệp đắc đạo thành Phật dưới cây Tát-la. Phật Câu-lâu-tần đắc đạo thành Phật dưới cây Tư-lợi. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni đắc đạo thành Phật dưới cây Ô-tạm. Phật Ca-diếp đắc đạo thành Phật dưới cây Ni-câu-loại. Nay, Ta thành Phật Thích-ca Văn-ni dưới cây A-bái-đa.   Thị giả Phật Duy-vệ tên A-luân. Thị giả Phật Thí tên Sai-ma-yết. Thị giả Phật Tùy-diệp tên Phục-chi-diệp. Thị giả Phật Câu-lâu-tần tên Phù-đề. Thị giả Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Tát-chất. Thị giả Phật Ca-diếp tên Tát-ba-mật. Ta, Phật Thích-ca Văn-ni, thị giả tên A-nan.

“Phật Duy-vệ có đệ tử đệ nhất tên Tắc, đệ nhị tên Chất-hàm. Phật Thức có đệ tử đệ nhất tên A-tỷ-vụ, đệ nhị tên Tam-tham. Phật Tùy-diệp có đệ tử đệ nhất tên Phật-đề, đệ nhị tên Uất-đa. Phật Câu-lâu-tần có đệ tử đệ nhất tên Tăng-kỳ, đệ nhị tên Duy-lưu. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni có đệ tử đệ nhất tên Chuyển Luân, đệ nhị tên Uất-đa. Phật Ca-diếp có đệ tử đệ nhất tên Chất-da-luân, đệ nhị tên Ba-đạt-hòa. Nay đệ tử đệ nhất của Ta, Phật Thích-ca Văn-ni là Xá-lợi-phất-la, đệ nhị tên Ma-ha Mục-kiền-liên.

“Phật Duy-vệ thuyết ba hội kinh cho các Tỳ-kheo. Hội thuyết kinh thứ nhất có mười vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có chín vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ ba có tám vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Thức cũng có ba hội thuyết kinh. Hội thuyết Kinh thứ nhất có chín vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có tám vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ ba có bảy vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Tùy-diệp có hai hội thuyết kinh. Hội thuyết kinh thứ nhất có bảy vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có sáu vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Câu-lâu-tần thuyết pháp một hội, có bốn vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thuyết pháp một hội, có ba vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Ca-diếp thuyết pháp một hội, có hai vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Ta, Phật Thích-ca Văn-ni thuyết pháp một hội, có một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đều đắc quả A-la-hán.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Không thể đo lường và xưng tán hết trí của Phật. Các Thầy nên thọ trì về sự xuất hiện, cha mẹ, Quốc vương, sự giáo hóa của bảy đức Phật.”

 Phật lại dạy các Tỳ-kheo:

“Kinh luật không thể không học. Đạo pháp không thể không hành trì. Đức Phật như người lái chiếc thuyền trong biển lớn, cả ngàn vạn người đều nương nhờ vào người lái để đi qua biển. Đức Phật dạy mọi người hành pháp thiện, đắc đạo quả và hóa độ thế gian cũng như vậy.”

Các Tỳ-kheo nghe kinh này vui mừng, làm lễ rồi lui ra.

Kinh Phật Tỳ Bà Thi

Hán Dịch: Tống Pháp Thiên
Việt dịch:  Thích Tâm Hạnh
Hiệu-chú: Tuệ Sỹ – Đức Thắng

QUYỂN THƯỢNG

Lúc bấy giờ, Phật bảo các Bí-sô:

Thời quá khứ có đại quốc vương tên Mãn-độ-ma. Vua có một Thái tử tên Tỳ-bà-thi. Sống lâu ngày trong thâm cung, Thái tử muốn đi dạo xem công viên, nên bảo Du-nga, người đánh xe:

“Hãy bố trí xe ngựa đàng hoàng để ta đi du ngoạn.”

Du-nga vâng lệnh đến chuồng ngựa, xếp đặt xe ngựa đem tới trước Thái tử. Thái tử lên xe, ra ngoài, thấy một người bệnh, bèn hỏi:

“Tại sao người này hình dáng tiều tụy, sức lực bạc nhược như vậy?”

Du-nga đáp:

“Đây là người bệnh.”

Thái tử hỏi:

“Bệnh là gì? “

Du-nga trả lời:

“Bốn đại giả hợp, hư huyễn không thật, chống trái nghịch nhau, liền sinh khổ não, đó gọi là bệnh.”

Thái tử hỏi:

“Ta có thoát khỏi bệnh không?”

Du-nga đáp:

“Thân thể huyễn hóa của Ngài cũng là tứ đại không khác. Nếu không tự bảo hòa cũng không thoát bệnh.”

Thái tử nghe nói, lòng cảm thấy không vui, liền bảo quay xe trở về hoàng cung, ngồi trầm tư về cái khổ của bệnh là thật, không hư dối, tâm không an ổn.”

Thế Tôn nói kệ:

Thái tử Tỳ-bà-thi,          
Dạo xem quanh vườn rừng;
Bỗng thấy người bệnh hoạn,     
Hình sắc rất tiều tụy.
Liền hỏi người đánh xe.
Biết mình không thoát bệnh,
Ngồi yên tự trầm tư:     
Khổ bệnh, là thật có.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Vua Mãn-độ-ma hỏi Du-nga:

“Thái tử đi ra ngoài trở về, tại sao không vui?’

“Du-nga đáp:

“Thái tử ra ngoài dạo xem phong cảnh, thấy một người bệnh hình sắc tiều tụy. Thái tử không biết, hỏi ‘Người ấy là người gì?’ Du-nga trả lời: ‘Đó là người bệnh.’ Thái tử hỏi: ‘Ta có thoát khỏi bệnh không?’ Du-nga đáp: ‘Thân thể của Ngài cũng đồng bốn đại huyễn hóa không khác; nếu không tự bảo hòa cũng không thoát khỏi bệnh.’ Thái tử liền bảo quay xe trở về cung; suy nghĩ về sự khổ của bệnh nên không vui.”

Vua Mãn Độ Ma nghe việc này, nhớ lại lời của thầy tướng ngày trước: ‘Nếu tại gia thì thọ phép Quán đảnh nối ngôi vua Chuyển luân. Nếu xuất gia thì dốc chí tu hành thì chứng đắc quả Phật.’ Nghĩ vậy, nên trong cung cho bày các loại ngũ dục tuyệt vời để mua vui Thái tử, làm Ngài say đắm, bỏ chí xuất gia.

Thế Tôn nói kệ:

Phụ vương Mãn-độ-ma
Biết con dạo chơi về,
Thân tâm không được vui.       
Sợ Thái tử xuất gia;
Dùng thú vui tuyệt diệu,           
Sắc, thanh, hương, vị, xúc;
Làm thỏa lòng Thái tử,
Để sau kế nghiệp vua.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Sau đó, Thái tử Tỳ-bà-thi bảo Du-nga:

“Hãy bố trí xe ngựa đàng hoàng để ta đi du ngoạn.”

Du-nga vâng lệnh, đến chuồng ngựa, xếp đặt xe ngựa đem tới trước Thái tử. Ra khỏi thành, Thái tử thấy một người già, tóc râu đều bạc, thân tâm suy nhược, run rẩy, hơi thở phều phào, chống gậy đi về phía trước. Thái tử hỏi:

“Đây là người gì?”

Du-nga đáp:

“Đây là người già.”

Thái tử hỏi:

“Sao gọi là người già?”

Du-nga đáp:

“Thân ngũ uẩn huyễn hóa, bốn tướng biến đổi, bắt đầu từ đứa bé, không bao lâu trưởng thành rồi già lão, mắt mờ, tai điếc, thân tâm suy tàn, gọi là già.”

Thái tử hỏi:

“Ta có thoát khỏi già không?”

Du-nga thưa:

“Sang hèn tuy khác nhưng thân hư giả này không khác; ngày qua tháng lại cũng phải già suy.”

Thái tử nghe nói không vui, trở về cung, ngồi yên trầm tư về sự đau khổ của già, không thể nào thoát được.

Thế Tôn nói kệ:

Thái tử Tỳ-bà-thi,          
Bỗng thấy một người già;
Tóc râu đều bạc phơ,    
Sức suy tàn, chống gậy.
Ngài nhập định tư duy: 
Tất cả pháp hữu vi;
Thay đổi từng sát na,    
Không ai thoát khỏi già.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Vua Mãn-độ-ma thấy Thái tử không vui, hỏi Du-nga:

“Tại sao tâm tình con ta không vui?

Du-nga đáp:

“Thái tử ra ngoài thấy một người già. Ngài hỏi: ‘Đây là người gì?’ Du-nga đáp: ‘Đây là người già.’ Thái tử lại hỏi: ‘Già là gì?’ Du-nga đáp: ‘Thân năm uẩn huyễn hóa, bốn tướng biến đổi, bắt đầu từ đứa bé, không bao lâu trưởng thành rồi già lão, mắt mờ, tai điếc, thân tâm suy tàn, gọi đó là già.’ Thái tử hỏi: ‘Ta có thoát khỏi già không?’ Du-nga thưa: ‘Sang hèn tuy khác nhưng thân giả hợp này không khác. Ngày qua tháng lại, cũng phải già suy.’ Thái tử nghe nói không vui, trở về, ngồi yên lặng trầm tư, thật không sao thoát khỏi già. Do đó Ngài không vui.”

Vua cha nghe việc này, nhớ đến lời của thầy tướng ngày trước: ‘Nếu tại gia làm vua Chuyển luân. Nếu xuất gia chắc chắn chứng quả Phật.’ Vua Mãn-độ-ma nghĩ vậy, nên dùng năm dục tuyệt vời mua vui Thái tử làm Ngài ưa thích bỏ chí xuất gia.

Thế Tôn nói kệ:

Phụ vương Mãn-độ-ma,           
Thấy con lòng không vui;
Nhớ lời thầy tướng nói,
Sợ Thái tử xuất gia.
Liền dùng vui năm dục,
Thỏa lòng cho Thái tử;
Như vua trời Đế Thích,
Vui trong vườn hoan hỷ.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Sau đó, Thái tử Tỳ-bà-thi bảo Du-nga:

“Hãy bố trí xe ngựa đàng hoàng, ta muốn đi du ngoạn.”

Du-nga đến chuồng ngựa, xếp đặt xe cộ đem tới trước Thái tử. Thái tử đi ra ngoài, thấy có nhiều người vây quanh một chiếc xe tang, khóc lóc thảm thiết. Thái tử hỏi:

“Đây là người gì?”

Du-nga đáp:

“Đây là người chết.”

Thái tử hỏi:

“Người chết là gì?”

Du-nga đáp:

“Con người sống trong thế giới trôi nổi này, tuổi thọ có dài ngắn. Ngày nào đó, hơi thở dứt thì thần thức lìa khỏi xác, vĩnh biệt thân quyến ra ở luôn nơi gò hoang, thân thuộc buồn khóc, đây là chết.”

Thái tử hỏi:

“Ta có thoát khỏi chết không?”

Du-nga đáp:

“Ba cõi không an, làm sao thoát khỏi sinh tử? Cho nên, không ai thoát khỏi chết cả.”

Thái tử nghe nói, thân tâm buồn rầu, bảo quay xe trở về cung, ngồi yên lặng suy nghĩ về pháp vô thường, chẳng thể ưa thích, làm sao ta thoát được khổ này.

Thế Tôn nói kệ:

Thái tử Tỳ-bà-thi,          
Thấy người chết nên hỏi.
Người đánh xe trả lời,  
Không ai thoát chết được.
Ngồi yên tự suy nghĩ,    
Thật đúng không nghi ngờ;
Ta phải làm thế nào,     
Để thoát khỏi vô thường.
Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Vua Mãn-độ-ma hỏi Du-nga:

“Tại sao Thái tử không vui?”

Du-nga đáp:

“Thái tử đi ra khỏi thành thấy một người chết, hỏi: ‘Đó là người gì? Du Nga đáp: ‘Đó là thây chết.’ Thái tử hỏi: ‘Chết là gì?’ Du-nga đáp: ‘Con người sống trong thế giới trôi nổi này, tuổi thọ có dài ngắn. Ngày nào đó, đứt hơi thở, thần thức lìa khỏi xác, vĩnh biệt thân quyến ra ở luôn nơi gò hoang, thân quyến buồn khóc, đó gọi là chết.’ Thái tử hỏi: ‘Ta có thoát khỏi chết không?’ Du-nga đáp: ‘Ba cõi không yên, làm sao thoát được sinh tử? Cho nên không ai thoát khỏi chết cả.’ Thái tử nghe nói, bảo quay xe trở về cung, yên lặng trầm tư, thật không thể thoát chết, do đó không vui.”

Nhà vua nghe lời này nhớ đến lời thầy tướng ngày trước: ‘Nếu tại gia làm Luân vương, nếu xuất gia chứng quả Phật.’ Nhà vua đem năm loại dục để mua vui cho Thái tử làm người say đắm bỏ chí xuất gia.

Thế Tôn nói kệ:

Quốc vương Mãn-độ-ma,         
Biết Thái tử Tỳ-thi,
Nhìn thấy người qua đời,          
Than thở lòng không vui.
Vua dùng cảnh vui thú, 
Sắc thanh hương vị xúc;
Làm Thái tử ưa thích,   
Bỏ chí nguyện xuất gia.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Sau đó, Thái tử Tỳ-bà-thi bảo Du-nga:

“Hãy bố trí xe ngựa đàng hoàng, ta muốn đi du ngoạn.”

Du-nga nghe xong, liền đến chuồng ngựa, xếp đặt xe cộ đem tới cho Thái tử. Thái tử lên xe ra ngoài, thấy một Bí-sô, cạo bỏ râu tóc, mặc ca sa. Thái tử hỏi:

“Đây là người gì?”

Du-nga đáp:

“Đây là người xuất gia.”

Thái tử hỏi:

“Người xuất gia là gì?”

Du-nga đáp:

“Người giác ngộ lão bệnh tử, vào cửa giải thoát, thực hành nhẫn nhục từ bi, cầu an lạc Niết-bàn, vĩnh viễn cắt đứt sự ân ái của thân quyến, chí nguyện làm Sa-môn; gọi là người xuất gia.”

Thái tử nghe xong vui mừng đến trước vị Bí-sô, tán thán:

“Lành thay! Lành thay! Thực hành các pháp thiện từ bi, nhẫn nhục, bình đẳng thì có thể dứt bỏ phiền não hướng đến an lạc. Ta cũng mong muốn làm như vậy. Thái tử nói xong trở về cung, phát lòng tin, hành pháp xuất gia, tác thành tướng mạo Sa-môn.”

Thế Tôn nói kệ:

Thái tử ra khỏi thành,   
Dạo xem các phong cảnh.
Chợt thấy người già bệnh,        
Hiện tượng vô thường kia.
Tâm tư suy nghĩ mãi,    
Đau khổ vấn vương lòng.
Lại thấy người xuất gia,           
Cạo bỏ sạch râu tóc;
Mặc ca sa hoại sắc,       
Điềm đạm dáng trang nghiêm;
Hành từ bi bình đẳng,   
Nhẫn nhục các pháp thiện.
Nên ngài xin xuất gia,  
Từ bỏ năm dục lạc,
Cha mẹ cùng quyến thuộc,       
Quốc thành cùng vật quý.
Mang hình tướng Sa-môn,        
Nhẫn nhục, tự điều phục;
Trừ hẳn tâm tham ái,    
Siêng năng cầu giải thoát.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Tại thành Mãn-độ-ma có tám vạn người thấy Tỳ-bà-thi từ bỏ ngôi của phụ vương, xuất gia cạo tóc mang hình tướng Sa-môn, nên họ suy nghĩ:

“Thái tử thuộc dòng họ cao thượng lại từ bỏ năm dục để tu phạm hạnh. Chúng ta nên xuất gia theo. Họ nghĩ như thế rồi, liền xuất gia làm Sa-môn.”

Thế Tôn nói kệ:

Người đại trí tối thượng,          
Số này có tám vạn;
Tùy thuận Tỳ-bà-thi,     
Xuất gia tu phạm hạnh.
Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí sô:

Sau khi Bồ-tát Tỳ-bà-thi đã xuất gia rồi, cùng với tám vạn người kia, rời khỏi thành phố của mình, du hành các nơi, đến một làng nọ kết hạ an cư. Sau khi mãn hạ, Ngài suy nghĩ: ‘Tại sao Ta lại như người say mê du hành các nơi vậy?’ Nghĩ như vậy tâm Ngài thanh tịnh đi đến chỗ ở cũ. Nửa đêm, Ngài lại suy nghĩ: ‘Tại sao ta sử dụng sự phú quý của thế gian?’ Chúng sanh do tham ái nên luân hồi sanh tử, bị khổ ràng buộc liên tục không chấm dứt.’ Ngài lại suy nghĩ: ‘Nguyên nhân của khổ là già chết. Già chết do nhân duyên gì phát sinh?’ Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, thấy có già chết là do có sự sinh. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của sinh do nhân duyên gì phát sinh? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, thấy từ hữu mà có. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của hữu do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, do thủ sinh ra hữu. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của thủ do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, do ái sinh ra thủ. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của ái do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, do thọ sinh ra ái. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của thọ do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, do xúc sinh ra thọ. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của xúc do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, do lục nhập sinh xúc. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của lục nhập do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, do danh sắc sinh lục nhập. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của danh sắc do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, do thức sanh danh sắc. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của thức do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát kỹ về pháp này, do hành sinh ra thức. Ngài lại suy nghĩ: Khổ của hành do nhân duyên gì sinh? Ngài nhập chánh định quán sát pháp này, do vô minh sanh hành. Như vậy, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử ưu bi khổ não. Như vậy là sự tập hợp thành một khối khổ lớn.

Bấy giờ Bồ tát Tỳ-bà-thi lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ lão tử? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này: sinh bị diệt thì lão tử diệt. Ngài lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về sinh? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do hữu diệt thì sinh diệt. Ngài lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về hữu? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do thủ diệt thì hữu diệt. Ngài lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về thủ? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do ái diệt thì thủ diệt. Ngài lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về ái? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do thọ diệt thì ái diệt. Ngài lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về thọ này? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do xúc diệt thời thọ diệt. Ngài lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về xúc này? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do lục nhập diệt thì xúc diệt. Ngài lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về lục nhập? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do danh sắc diệt thì lục nhập diệt. Ngài suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về danh sắc? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do thức diệt thời danh sắc diệt. Ngài suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về thức? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do hành diệt thì thức diệt. Ngài lại suy nghĩ: Làm sao diệt trừ nhân của khổ về hành? Ngài nhập chánh định quán sát về pháp này, do vô minh diệt thì hành diệt. Như vậy, vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt.”

Như vậy, một khối khổ lớn, tự nó không sanh nữa.

Thế Tôn nói kệ:

Bồ tát Tỳ-bà-thi,
Trầm tư khổ già chết,
Dùng trí tìm nhân khổ, 
Duyên gì sanh pháp gì?
Nhập định quán sát kỹ,
Biết rõ khổ do sinh;
Cho đến nhân của hành,           
Biết từ vô minh khởi.
Lại quán diệt từ đâu,    
Vô minh diệt hành diệt;
Cho đến hết lão tử,       
Thì khổ uẩn không còn.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Khi ấy, Bồ-tát Tỳ-bà-thi lại quán về sắc, thọ, tưởng, hành, thức sanh diệt không ngừng, như huyễn như hóa không chân thật. Khi ngài quán như vậy, trí quán hiện tiền, tất cả nghiệp tập phiền não không còn sinh khởi, đắc đại giải thoát, thành Chánh đẳng giác. Thế Tôn nói kệ:

Bồ tát Tỳ-bà-thi,
Lại quán các pháp uẩn;
Nhập vào Tam-ma-địa,
Khi trí quán hiện tiền.
Tập khí khổ hoặc nghiệp,         
Tất cả đều không sanh;
Như lụa bị gió cuốn,     
Không sát na nào ngừng.
Thành tựu Phật Bồ Đề, 
Quả Niết-bàn an lạc;
Như trăng tròn sáng chiếu,       
Rạng rỡ khắp mười phương.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Bồ tát Tỳ-bà-thi khi chưa giác ngộ, thứ nhất nghi ngờ về sự mê loạn của tự thân. Thứ hai nghi ngờ về các phiền não tham sân cứ phát triển mãi. Ngài quán sát về các pháp duyên sanh như vậy, đắc đại giải thoát.”

Thế Tôn nói kệ:

Thân Phật Như Lai kia,
Ngài chứng pháp khó chứng;
Quán sát pháp duyên sinh,        
Đoạn trừ tham, sân, si.
Tận cùng đến bờ giác,  
Thành tựu đại giải thoát;
Như mặt trời trên núi,  
Chiếu sáng khắp nơi nơi.

HẾT QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Sau khi thành đạo, Phật Tỳ-bà-thi suy nghĩ:

“Nên thuyết pháp nơi nào trước để đem lại lợi lạc cho hữu tình? Ngài nghĩ kỹ, thấy thành lớn chỗ ngự của vua Mãn-độ-ma, nhân dân phồn thịnh, cơ duyên thuần thục. Suy nghĩ như vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục tay cầm bát, lần lượt đi khất thực, đến thành Mãn-độ-ma, vào vườn An lạc Lộc dã, tạm trú ở đây với tâm tự tại, không sợ hãi.

Thế Tôn nói kệ:

Bậc nhị túc, chánh biến,
Tự tại hành trì bát;
An trú vườn Lộc dã,
Không sợ, như sư tử.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Phật Tỳ-bà-thi bảo người giữ cửa:

“Ta muốn gặp Thái tử Khiếm-noa và cận thần Đế-tô-rô. Ta đang ở vườn An lạc Lộc dã, muốn gặp hai vị đó.”

Người giữ cửa nghe nói, đến chỗ Thái tử Khiếm-noa và cận thần Đế-tô-rô, trình bày sự việc:

“Phật Tỳ-bà-thi thành đạo chánh giác, đến thành Mãn-độ-ma, ở trong vườn An lạc Lộc dã, muốn gặp các ngài.”

“Thái tử Khiếm-noa nghe tâu, cùng Đế-tô-rô lên xe ra khỏi thành Mãn-độ-ma, vào vườn An lạc Lộc dã, đến trước Phật Tỳ-bà-thi, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, mắt chăm chú chiêm ngưỡng tôn nhan của Phật không rời.

Bấy giờ, Phật Tỳ-bà-thi muốn cho Khiếm-noa vui vẻ phát lòng tin nên khai thị diệu pháp. Phật dạy:

“Như Phật quá khứ giảng dạy, nếu bố thí, trì giới, tinh tấn tu hành, xa lìa dục sắc phiền não lỗi lầm, sẽ được sinh nơi cõi trời thanh tịnh.”

Thái tử Khiếm-noa cùng Đế-tô-rô nghe lời dạy, tâm được thanh tịnh, như tâm của Phật Tỳ-bà-thi Chánh đẳng giác, sinh tâm hiểu biết chân chính, tâm không nghi ngờ, tâm thiện, tâm nhu hòa, tâm quảng đại, tâm vô ngại, tâm vô biên, tâm thanh tịnh. Đức Phật lại giảng nói, khai thị các pháp hành của Tứ đế là khổ, tập, diệt, đạo.

Bấy giờ, Thái tử Khiếm-noa và Đế-tô-rô thông đạt Tứ đế, thấy pháp, biết pháp, đắc pháp, được pháp kiên cố, nương nơi pháp, trụ nơi pháp, bất động nơi pháp, không xả pháp, không luống không nơi pháp. Như tấm vải trắng không có các vết bẩn, tâm giác ngộ pháp cũng như vậy.

Lúc này, Thái tử Khiếm-noa và Đế-tô-rô bạch Phật Tỳ-bà-thi:

“Kính bạch Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, con mong được xuất gia thọ giới của Thiện Thệ.”

Phật dạy:

“Lành thay! Nay đã đến lúc.”

“Đức Phật cho cạo tóc và truyền giới cụ túc cho hai người. Sau đó, Ngài vì hai người này hiện ba loại thần thông, làm cho họ phát tâm tinh tấn hướng đến Phật tuệ. Một, hiện biến hóa thần thông. Hai, hiện thuyết pháp thần thông. Ba, hiện điều phục thần thông. Thấy sự thị hiện như vậy, Thái tử Khiếm-noa và Đế-tô-rô càng dũng mãnh tinh tấn, không bao lâu tương ưng với chân trí, đoạn sạch các lậu, thành A-la-hán. Thế Tôn nói kệ:

Thế Tôn Tỳ-bà-thi,
Thuyết pháp vườn Lộc dã;
Khiếm-noa, Đế-tô-rô,   
Đều đến nơi Phật ở.
Cúi đầu sát đảnh lễ,      
Nhất tâm chiêm ngưỡng Ngài.
Phật dạy thí, trì giới,    
Pháp khổ, tập, diệt, đạo.
Nghe xong càng tin nhận,         
Hiểu pháp không sanh diệt;
Đều cầu xin xuất gia,   
Thọ giới của Thiện Thệ.
Lại thấy sức thần thông,           
Liền phát tâm tinh tấn;
Không lâu, đoạn hết lậu,          
Chứng quả A-la-hán.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy hãy lắng nghe! Nhân dân thành Mãn-độ-ma phồn thịnh, có tám vạn người gieo trồng gốc thiện đời trước, nghe Thái tử Khiếm-noa và Đế-tô-rô vì lòng tin chân chính xuất gia; đức Phật thuyết pháp, hiện thần thông, cả hai đều chứng thánh quả. Họ đều suy nghĩ: ‘Thật sự có xuất gia như vậy, có phạm hạnh như vậy, có thuyết pháp như vậy, có điều phục như vậy. Đây là sự việc hiếm có trên thế gian, được nghe việc chưa từng nghe, chúng ta nên nguyện xuất gia.’ Sau khi nghĩ như thế, tám vạn người đều xả bỏ gia đình duyên sự, ra khỏi thành Mãn-độ-ma, vào vườn An lạc Lộc dã, đến nơi Phật Tỳ-bà-thi, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, đứng qua một bên, chắp tay chăm chú chiêm ngưỡng Phật. Để cho họ phát sinh lòng tin, Phật nói:

“Diệu pháp mà chư Phật quá khứ đã dạy: người bố thí, trì giới, tinh tấn, tu hành, thoát ly dục sắc, phiền não, các lỗi lầm, thì sinh về cõi trời thanh tịnh.”

Tám vạn người nghe lời dạy, tâm được thanh tịnh, như tâm Phật Tỳ-bà-thi Chánh đẳng giác, sinh tâm hiểu biết chân chính, tâm không nghi ngờ, tâm thiện, tâm nhu hòa, tâm quảng đại, tâm vô ngại, tâm vô biên, tâm thanh tịnh. Phật lại giảng dạy, khai thị các pháp hành của Tứ đế là khổ, tập, diệt, đạo. Tám vạn người kia thông đạt Tứ đế, thấy pháp, biết pháp, đắc pháp, kiên cố nơi pháp, nương dựa nơi pháp, bất hoại nơi pháp, trụ nơi pháp, không dao động nơi pháp, không xả pháp, không luống không nơi pháp. Như tấm vải trắng không bị vết nhớp; tâm họ cũng như vậy.

Tám vạn người đồng bạch Phật:

“Cầu xin đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác thu nhận chúng con, cho phép chúng con được xuất gia thọ trì giới của Thiện Thệ.”

Phật cho phép họ cạo tóc thọ giới. Ngài lại hiện ba loại thần thông làm cho họ phát khởi tinh tấn. Một, biến hóa thần thông. Hai, thuyết pháp thần thông. Ba, điều phục thần thông. Sau khi Phật thị hiện như thế, tám vạn người dũng mãnh tinh tấn, không bao lâu đoạn tận phiền não, tâm ý giải thoát, chứng A-la-hán.

Thế Tôn nói kệ:

Trong thành Mãn-độ-ma,
Tám vạn người nghe được;
Khiếm-noa và Đế-tô-rô,           
Xuất gia chứng thánh đạo.
Đều phát tâm thanh tịnh,         
Đi đến nơi đức Phật;
Nghe pháp tâm hoan hỷ,           
Liền phát lòng dũng mãnh.
Chắp tay bạch Thế Tôn,           
Cho con xin xuất gia;
Thọ trì đối giới luật,      
Đã đúng lúc nhận họ.
Cạo tóc cho thọ giới,    
Rồi lại hiện thần thông;
Đoạn sạch các trói buộc,          
Như diệt rừng Thi Lợi.
Cháy sạch không còn sinh,       
Thành tựu giải thoát lớn;
Các khổ nương như vậy,          
Diệt hết không còn nữa.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Phật Tỳ-bà-thi độ đại chúng kia rồi, ra khỏi vườn An lạc Lộc dã đến thành Mãn-độ-ma. Tám vạn Bí-sô cũng đến thành Mãn-độ-ma, tới trước Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi qua một bên. Phật giảng dạy đầy đủ nhân duyên đắc đạo, làm cho họ thêm kiên cố.

Thế Tôn nói kệ:

Làm việc rất khó làm,
Luân hồi dứt luân hồi;
Tám vạn người như vậy,          
Đoạn sạch các trói buộc.
Cũng như Đế-tô-rô,      
Và Thái tử Khiếm-noa;
Tinh tấn cầu xuất gia,   
Đều được quả giải thoát.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Phật Tỳ-bà-thi suy nghĩ: ‘Nên giảm bớt số đông Bí-sô đang ở nơi thành Mãn-độ-ma; bảo sáu vạn hai ngàn Bí-sô đi khắp nơi, du hóa đến các thôn xóm, tùy ý tu tập. Sau sáu năm lại trở về thành Mãn-độ-ma, thọ trì Ba-la-đề-mục-xoa’. Khi Phật suy nghĩ, trên hư không có một vị thiên tử, biết tâm niệm của Phật, bạch rằng:

“Lành thay! Nay đúng lúc bảo sáu vạn hai ngàn Bí-sô du hóa các thôn xóm, tùy ý tu hành, sau sáu năm lại trở về nước cũ, thọ trì Ba-la-đề-mục-xoa.”

Đức Phật dạy:

“Này các Bí-sô, nên sai sáu vạn hai ngàn người du hóa tới các thôn xóm, tùy ý tu hành, sau sáu năm lại trở về nước cũ, thọ trì Ba-la-đề-mục-xoa.”

Khi ấy, sáu vạn hai ngàn người nghe dạy, đi ra khỏi thành Mãn-độ-ma, du hóa các phương.

Thế Tôn nói kệ:

Vô lậu, Đẳng chánh giác,
Điều ngự, Đại trượng phu;
Hướng dẫn chúng quần sinh,    
Đi đến đạo tịch tĩnh.
Sai đại chúng Bí-sô,      
Chúng Thanh văn tối thượng;
Sáu vạn hai ngàn người,           
Ra khỏi thành Mãn-độ.
Du hành các thôn xóm, 
Như rồng uy thế lớn;
Tùy ý tự tu hành,           
Sáu năm về chỗ cũ.

Thế Tôn nói kệ xong bảo các Bí-sô:

“Sáu vạn hai ngàn Bí-sô kia ra khỏi thành, đi đến các làng xóm tùy ý tu hành. Trải qua một năm, hai năm, cho đến sáu năm, các Bí-sô ấy bảo nhau:

“Đã hết sáu năm, nên trở về nước cũ.”

“Khi họ nói như vậy, Thiên nhân ở không trung lên tiếng:

“Nay đã đúng lúc trở về thành Mãn-độ-ma, thọ trì Ba-la-đề-mục- xoa. Sáu vạn hai ngàn Bí-sô dùng thần lực của mình và uy đức của chư thiên, trong chốc lát đã về thành Mãn-độ-ma.

Thế Tôn nói kệ:

Đại Bí-sô của Phật,
Sáu vạn hai ngàn người;
Du hóa khắp làng xóm,
Thời gian đủ sáu năm.
Tự nhớ trở về nước,     
Thiên nhân lên tiếng nói;
Nên về thành Mãn-độ,  
Thọ trì giới thanh tịnh.
Nghe vậy rất vui mừng,
Cảm giác cả toàn thân;
Liền dùng sức thần thông,        
Như cỡi voi quý lớn.
Nhanh chóng về thành cũ,        
Tự tại không trở ngại;
Vô thượng nhị túc tôn,
Xuất hiện ở thế gian.
Khéo giảng các luật nghi,         
Độ thoát chúng quần sinh;
Nay Phật sẽ giảng dạy, 
Ba-la-đề-mục-xoa.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

Sáu vạn hai ngàn Bí-sô kia vào thành Mãn-độ-ma, đến trước Phật Tỳ-bà-thi cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi qua một bên. Phật dạy:

“Hãy lắng nghe! Ta sẽ giảng giải về Ba-la-đề-mục-xoa:

Nhẫn nhục là tối thượng,
Nhẫn được chứng Niết-bàn;
Phật quá khứ đã dạy:   
Xuất gia làm Sa-môn,
Từ bỏ sự sát hại,           
Bảy chi tội thân, miệng;
Giữ giới cụ túc này,      
Phát sinh đại trí tuệ.
Được thân Phật thanh tịnh,     
Bậc tối thượng thế gian;
Xuất sinh trí vô lậu,      
Chấm dứt khổ sinh tử.

Khi Thế Tôn nêu giảng về giới luật này, có chư thiên, thiên tử, dùng uy lực chư thiên, rời khỏi thiên cung, đến trước Phật Tỳ-bà-thi, đảnh lễ chắp tay, lắng nghe Ba-la-đề-mục-xoa.

Thế Tôn nói kệ:

Vô lậu, không nghĩ bàn,
Phá tối, đến bờ giác;
Tất cả trời Thích, Phạm,          
Đều nghe giới Đại Tiên.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Một hôm, trong tịnh thất, cạnh hang Thất diệp ở thành Vương xá, Ta ngồi suy nghĩ: ‘Khi Phật quá khứ Tỳ-bà-thi tuyên bố tạng Tỳ-nại-da, e rằng có chư thiên không đến nghe giới của Đại Tiên. Nay Ta đến cõi trời để hỏi chúng Phạm thiên.’ Nghĩ như thế rồi, Ta nhập chánh định đến trời Thiện hiện nhanh như người lực sĩ co duỗi cánh tay. Thiên tử nơi ấy, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, bạch: ‘Lành thay Thế Tôn! Đã lâu Ngài không đến đây, con là đệ tử Thanh văn của Phật Tỳ-bà-thi Chánh đẳng Chánh giác. Ngài thuộc giòng Sát-đế-lợi, họ Kiều-trần, xuất gia vì lòng tin, sống tám vạn tuổi. Phụ vương tên Mãn-độ-ma, mẫu hậu tên Mãn-độ-ma-đế. Thái tử Khiếm-noa, Đế-tô-rô, xuất gia thọ giới, chứng A-la-hán. Vị thị giả hiền thiện đệ nhất tên A-du-ca. Phật thuyết pháp ba hội, độ nhiều Thanh văn. Đại hội thứ nhất có sáu vạn hai ngàn người đắc quả A-la-hán. Đại hội thứ hai mười vạn người đắc quả A-la-hán. Đại hội thứ ba có tám vạn người đắc quả A-la-hán. Đức Phật Tỳ-bà-thi có sự tối thượng như vậy, xuất gia như vậy, chứng Bồ-đề như vậy, thuyết pháp như vậy, điều phục như vậy, làm cho các đệ tử mặc y mang bát như vậy, tu hành Phạm hạnh, xa lìa năm dục, đoạn phiền não đắc giải thoát, chứng pháp Vô sanh, chứng A-na-hàm... cũng như vậy.

Sau đó, là Phật Thi-khí, Phật Ty-xá-phù, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp thuyết giảng pháp điều phục, mặc y mang bát, tu các phạm hạnh, xa lìa năm dục, đoạn phiền não chứng pháp vô sanh, chứng A-na-hàm... cũng như vậy.

Bấy giờ, có vô số trăm ngàn thiên tử, cung kính vây quanh Thế Tôn cùng đi đến trời Thiện kiến. Chư thiên ở trời Thiện kiến thấy Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi cùng vô số trăm ngàn thiên tử cung kính vây quanh Phật, đi đến trời Sắc cứu cánh. Thiên vương kia từ xa thấy Thế Tôn, đảnh lễ sát chân Thế Tôn, bạch:

“Lành thay Thế Tôn! Đã lâu Ngài không đến đây, con là đệ tử Thanh văn của Phật Tỳ-bà-thi Chánh đẳng Chánh giác. Ngài thuộc dòng Sát-đế-lợi, họ Kiều-trần sống tám vạn tuổi. Phụ vương tên Mãn-độ-ma, mẹ tên Mãn-độ-ma-đế. Đô thành cũng tên Mãn-độ-ma. Thái tử Khiếm-noa, Đế-tô-rô, xuất gia thọ giới, chứng A-la-hán. Vị thị giả hiền thiện đệ nhất tên A-du-ca. Phật thuyết pháp ba hội, độ nhiều chúng Thanh văn. Đại hội thứ nhất độ sáu vạn hai ngàn người đắc quả A-la-hán. Đại hội thứ hai độ mười vạn người đắc quả A-la-hán. Đại hội thứ ba độ tám vạn người đắc quả A-la-hán. Phật Tỳ-bà-thi có sự tối thượng như vậy, xuất gia như vậy, phạm hạnh như vậy, chứng Bồ-đề như vậy, thuyết pháp như vậy, điều phục như vậy, quy định các đệ tử mặc y mang bát, tu các phạm hạnh, xa lìa năm dục, đoạn phiền não, chứng pháp Vô sanh, chứng A-na-hàm...


“Sau đó là Phật Thi-khí, Phật Ty-xá-phù, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp, mặc y mang bát thuyết pháp điều phục, tu các phạm hạnh, xa lìa năm dục, chứng pháp vô sanh, chứng A-na-hàm...

“Nay, bậc Đại Mâu-ni thuyết pháp phạm hạnh điều phục chúng sanh cũng như vậy.”

Thiên tử nói kệ:

Vô thượng Nhị túc tôn,
Nhập vào tam-ma-địa;
Dùng sức thần thông lớn,         
Ra khỏi cõi Diêm-phù.
Đến cõi trời Thiện hiện,
Chỉ trong một chớp nhoáng;
Như lực sĩ duỗi tay,       
Sát-na đến cõi ấy.
Thế Tôn rất hy hữu,      
Vô lậu, không chướng ngại;
Thân thanh tịnh giải thoát,       
Như sen không dính nước.
Trong trăm ngàn thế giới,        
Không ai sánh bằng Phật;
Hàng phục đại ma vương,        
Như sông cuốn cỏ rác.
Các vị trời Thiện hiện,  
Đều đến cúi đầu lạy;
Quy y bậc Tối thượng,  
Chánh giác Đại từ tôn.
Điều phục các chúng sanh,       
Sáu căn đều thanh tịnh;
Phát sinh tuệ vô thượng,          
Y pháp tu tinh tấn.
Quá khứ Tỳ-bà-thi,       
Bậc Chánh đẳng chánh giác;
Thuyết diệu pháp ba hội,          
Hóa độ chúng Thanh văn.
Luật nghi và phạm hạnh,          
Giữ gìn không khuyết phạm;
Thanh tịnh và viên mãn,           
Như trăng trong đêm rằm.
Phật Thi-khí Thế Tôn,   
Như Lai Tỳ-xá-phù;
Hiền kiếp Câu-lưu-tôn, 
Câu-na-hàm Nâu-ni.
Cùng với Phật Ca-diếp,
Các Như Lai như vậy;
Chúng Thanh văn được độ,      
Đều chứng đắc, lậu hết.
Không có các phiền não,          
Thường tu bảy giác chi;
Hành trì Bát chính đạo,
Xa lìa lỗi năm dục.
Thông đạt trí tuệ lớn,    
Đều là bậc tri thức;
Như vua Tỳ-sa-môn,     
Thường uống vị cam lồ.
Như ánh sáng mặt trời,
Tất cả Phật, Thế Tôn.
Uy nghi và pháp hành, 
Lợi ích chúng quần sanh;
Mở bày các phương tiện,          
Hướng dẫn đều giống nhau.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Ta đến chỗ chư thiên kia, nghe sự việc này, biết các thiên nhân, đối với pháp hội của chư Phật, đều tùy hỷ, có người ưa thích thọ trì, đi đứng nằm ngồi, tư duy đọc tụng, không có các mê hoặc, đoạn trừ hẳn luân hồi, giải thoát an lạc.

Phật thuyết kinh này xong, mọi người đều hoan hỷ, tin thọ phụng hành.

HẾT QUYỂN HẠ

Kinh Thất Phật

Hán Dịch: Tống Pháp Thiên
Việt dịch:  Thích Tâm Hạnh
Hiệu-chú: Tuệ Sỹ  – Đức Thắng

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, có chúng đại Bí-sô khi ôm bát ăn, đến đạo tràng Ca-lý-lê, cùng nhau ngồi suy nghĩ:

“Trong thời quá khứ có đức Phật nào xuất hiện? Giòng họ, danh hiệu, tuổi thọ ngắn dài của các vị ấy như thế nào?”

Sau khi suy nghĩ như vậy, họ hỏi nhau nhưng vẫn không thể biết được.

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết các Bí-sô này suy nghĩ sự việc ấy. Ngài rời chỗ ngồi, đến đạo tràng Ca-lý-lê, ngồi kiết già.

Các Bí-sô cúi đầu lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, chắp tay cung kính, nhất tâm chiêm ngưỡng Phật.

Thế Tôn hỏi:

“Này các Bí-sô! Các Thầy đang nghĩ về chuyện gì?”

Bí-sô thưa:

“Chúng con suy nghĩ: Trong thời quá khứ có vị Phật nào ra đời, với dòng họ, danh hiệu, tuổi thọ ngắn dài như thế nào, nhưng không ai biết được.”

Phật hỏi các Bí sô:

“Các Thầy muốn biết không?”

Các Bí sô thưa:

“Nay đã đúng lúc, ngưỡng mong Thế Tôn dạy cho chúng con.”

Phật dạy:

“Các Thầy lắng nghe! Ta sẽ nói về việc đó.

“Thời quá khứ, cách đây chín mươi mốt kiếp có Phật Tỳ-bà-thi, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian.

 “Cách đây ba mươi mốt kiếp, có Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện ở thế gian.

“Vào kiếp thứ sáu trong hiền kiếp có Phật Câu-lưu-tôn, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện ở thế gian.

“Vào kiếp thứ bảy, có Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện ở thế gian.

“Vào kiếp thứ tám, có Phật Ca-diếp-ba, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian.

“Vào kiếp thứ chín, Ta là Phật Thích-ca Mâu-ni, xuất hiện ở thế gian, là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác.

“Trong kiếp quá khứ, Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù giảng dạy thi-la, là giới luật thanh tịnh, và công hạnh để thành tựu trí tuệ tối thượng.

“Trong hiền kiếp, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp-ba, cũng giảng dạy luật nghi thanh tịnh và pháp thiền định giải thoát. Pháp của Ta giảng dạy cũng như vậy.

“Này các Bí-sô! Phật Tỳ-bà-thi, thời quá khứ, thuộc giòng Sát-đế-lị, phát tâm tịnh tín, mà xuất gia, thành đạo Chánh giác. Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù cũng thuộc giòng Sát-đế-lị. Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp thuộc giòng Bà-la-môn. Ta sinh trong cung vua Tịnh Phạn, dòng Sát-đế-lợi.”

Bấy giờ, để trùng tuyên ý nghĩa này, Thế Tôn bèn nói bài kệ:

Ta nói đời quá khứ,
Vào kiếp chín mươi mốt;
Có Phật Tỳ-bà-thi,  
Xuất hiện trong thế gian.
Trong kiếp ba mươi mốt,    
Thi Khí, Tỳ-xá-phù;
Bậc Chánh đẳng giác ấy,    
Thuộc giòng Sát-đế-lị.
Như Lai Câu-lưu-tôn,   
Câu-na-hàm, Ca-diếp;
Cả ba Thế Tôn này,
Đều thuộc Bà-la-môn.
Ta ở cõi Diêm-phù,
Con đức vua Tịnh Phạn;
Tu giác ngộ thành Phật,     
Thuộc giòng Sát đế lị.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy hãy lắng nghe: Ta lại nói về tộc họ của bảy Phật, Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác. Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, thuộc họ Kiều-trần. Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp-ba, thuộc họ Ca-diếp. Thích-ca Như Lai thuộc họ Cù-đàm.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Như Lai Tỳ-bà-thi,  
Thi-khí, Tỳ-xá-phù;
Cả ba vị Phật này,  
Đều mang họ Kiều-trần.
Như Lai Câu-lưu-tôn,   
Câu-na-hàm, Ca-diếp;
Cả ba vị Phật này,  
Đều mang họ Ca-diếp.
Ta ở cõi Diêm-phù,
Sinh trong cung Tịnh Phạn;
Nên mang họ Cù-đàm,  
Xuất gia chứng Bồ-đề.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Ta nói về tuổi thọ dài ngắn của bảy Phật Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác.

“Phật Tỳ-bà-thi, Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian, sống tám vạn tuổi. Phật Thi-khí, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, xuất hiện trong thế gian, sống bảy vạn tuổi. Phật Tỳ-xá-phù, Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian, sống sáu vạn tuổi. Phật Câu-lưu-tôn, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, xuất hiện trong thế gian, sống bốn vạn tuổi. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, xuất hiện trong thế gian, sống ba vạn tuổi. Phật Ca-diếp-ba, Ứng cúng, Chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian, sống hai vạn tuổi. Ta hóa độ chúng sanh trong đời năm trược, sống một trăm tuổi.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ: 

Như Lai Tỳ-bà-thi,  
Thi-khí, Tỳ-xá-phù;
Đức Phật Câu-lưu-tôn, 
Câu-na-hàm, Ca-diếp.
Chư Phật khi ra đời,     
Đều theo tuổi thọ người;
Tám vạn rồi bảy vạn,    
Sáu vạn xuống bốn vạn.
Ba vạn đến hai vạn,
Phật Thích-ca cũng vậy;
Xuất hiện, đời năm trược,  
Loài người thọ trăm tuổi.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Nay Ta nói về tên, danh hiệu cha mẹ, quốc gia, thành phố của bảy vị Phật Như Lai.”

“Phụ vương của Phật Ty-bà-thi tên là Mãn-độ-ma, mẹ tên Mãn-độ-ma, kinh thành cũng tên Mãn-độ-ma.

“Phụ vương Thi-khí Như Lai tên A-rô-noa, mẹ cũng tên A-rô-noa; kinh thành tên A-rô-phược-đế.

“Phụ vương Tỳ-xá-phù Như Lai tên Tô-bát-la-để-đô, mẹ tên Bát-la-bà-phược-để, kinh thành tên A-nỗ-bát-ma.

“Cha của Phật Câu-lưu-tôn tên Dã-nghê-dã-na-đa, hiệu Sát-mô-sát-ma, mẹ tên Vĩ-xá-khư, kinh thành tên Sát-ma.

“Cha của Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Dã-nghê-dã-na-đỗ, mẹ tên Ô-đa-la; vua hiệu Thâu-bộ, kinh thành tên Thâu-bà-phược-đế.

“Cha của Ca-diếp Như Lai tên Tô-một-ra-hạ-ma, mẹ tên Một-ra-hạ-ma-ngu-bát-đa; vua hiệu Ngật-lý-kế, kinh thành tên Ba-la-nại .

“Nay, Ta bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác, phụ vương ta tên Tịnh Phạn, mẹ tên Ma-ha-ma-da; kinh thành tên Ca-tỳ-la.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Bản sinh của chư Phật, 
Tỳ-bà-thi Như Lai;
Cha tên Mãn-độ-ma,     
Mẹ Mãn-độ-ma-đế.
Kinh đô thành quách lớn,   
Cũng tên Mãn độ ma;
Lúc đó nước ấy giàu,    
Nhân dân sống an lạc.
Phật Thi-khí Thế Tôn,   
Phụ vương A-rô-noa;
A-rô-noa-phược-đế,
Là tên của mẹ Phật.
Thành ngài ở cùng tên, 
A-lỗ-phược-đế;
Nhân dân sống phồn thịnh, 
Giàu có thường an ổn.
Tỳ-xá-phù Như Lai,
Phụ vương và mẹ tên;
Tô-bát-ra-đế-đô,     
Bát-ra-bà-phược-đế.
Kinh thành của nước ấy,    
Tên A-nỗ-bà-ma.
Thời đó sống an ổn,
Không có các tai hại.
Thế Tôn Câu-lưu-tôn,   
Tên thân phụ của ngài;
Dã-nghê-dã-na-đa,  
Mẹ tên Vĩ-xá-khư.
Vua Sát-mô-sát-ma;
Kinh thành tên Sát-ma;
Nhân dân sống thời ấy, 
Tôn trọng điều hiền thiện.
Câu-na-hàm-mâu-ni,    
Dã-nghê-dã-na-đổ,
Là tên cha của ngài;     
Mẹ tên Ô-đa-ra.
Quốc vương hiệu Thâu-bộ, 
Thành Thâu-bà-phược-đế;
Cao rộng thật tráng lệ; 
Chúng sanh không cực nhọc.
Cha Phật Ca-diếp-ba,   
Tô-một-ra-hạ-ma;
Mẹ tên gọi Một-ra,  
Hạ-ma-ngu-bát-đa.
Quốc vương Ngật-lý-kế,     
Thành đô Ba-la-nại;
Chúng sanh trong thành ấy,     
Ngày đêm sống an ổn.
Nay chỗ sinh của Ta,    
Phụ vương hiệu Tịnh Phạn;
Mẹ Ma-ha Ma-da,   
Thành tên Ca-tỳ-la.
Như trên phân biệt rõ,  
Tên cha mẹ, nước, thành;
Của bảy Phật Như Lai,        
Chánh đẳng giác như vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Ta nói về đệ tử Thanh văn của bảy vị Phật Như Lai. Đệ tử đại trí của Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Khiếm-noa-để-tả, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Thi-khí Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Bộ-tam-bà-phược, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Tỳ-xá-phù Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Dã-tâu-đa-la, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Câu-lưu-tôn Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Tán-nhĩ-phược, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Tô-rô-nỗ-đa-la, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Đệ tử đại trí của Ca-diếp-ba Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Bà-ra-đặc-phược-nhạ, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.

“Ta, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác, có đệ tử đại trí tên Xá-lợi-phất là bậc đệ nhất trong chúng Thanh văn.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Tỳ-bà-thi Như Lai,  
Có đệ tử đại trí,
Tên Khiếm-noa-để-tả.   
Phật Thi-khí Thế Tôn,
Có đệ tử đại trí,
Tên Bộ-tam-bà-phược.
Tỳ-xá-phù Như Lai,
Có đệ tử đại trí,
Tên Dã-thâu-đa-ra. 
Câu-lưu-tôn Như Lai,
Có đệ tử đại trí,
Tên là Tán-nhĩ-phược.
Câu-na-hàm Mâu-ni,    
Có đệ tử đại trí,
Tô-rô-noa-đa-ra.     
Phật Thế Tôn Ca-diếp,
Có đệ tử đại trí,
Bà-ra-đặc-phược-nhạ.
Nay Ta, Ứng Chánh giác,   
Có đệ tử đại trí,
Tên là Xá-lợi-phất.  
Bảy vị Phật tử ấy,
Đều đệ nhất đại trí, 
Ở trong chúng Thanh văn.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Ta nói về đệ tử thị giả của bảy vị Phật Như Lai.

“Thị giả của Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác tên A-thâu-ca.

“Thị giả của Thi-khí Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác tên Sát-ma-ca-rô.

“Thị giả của Phật Tỳ-xá-phù, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Ô-ba-phiến-đổ.

“Thị giả của Phật Câu-lưu-tôn, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Một-đề-du.

“Thị giả của Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên To-rô-đế-lý-dã.

“Thị giả của Ca-diếp Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, tên Tát-lý-phược mật-đát-la.

“Nay Ta, bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác, có thị giả tên A-nan-đà.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Phật tử A-du-ca,     
Và Sát-ma-ca-rô;
Với Ô-ba-phiến-đổ, 
Tôn giả Một-đề-du.
Tô-rô-đế-lý-dã,  
Tát-phược-mật-đát-ra;
Bí-sô A-nan-đà, 
Đều là thị giả Phật.
Thường hành tâm từ bi,
Thành tựu được chánh định;
Thông đạt các pháp tướng,      
Đầy đủ đại trí tuệ.
Đa văn lại thông minh,
Là bậc Thầy đại pháp;
Đệ nhất ở trong chúng;      
Danh tiếng khắp mười phương,
Trời người đều quy kính;
Sức tinh tấn kiên cố;
Đoạn sạch các phiền não.   
Chứng quả không sinh diệt.
Thị giả Phật Thế Tôn,   
Tự thân thường được lợi;
Thành tựu chơn Phật tử,    
Của chư Phật là vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí sô:

“Các Thầy lắng nghe! Ta nói về chúng Thanh văn do bảy Phật Như Lai hóa độ.

“Hội thuyết pháp thứ nhất của Tỳ-bà-thi Như Lai có sáu vạn hai ngàn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ hai có mười vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ ba có bảy vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Hội thuyết pháp thứ nhất của Thi-khí Như Lai có mười vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ hai có tám mươi ức Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ ba có bảy vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Hội thuyết pháp thứ nhất của Tỳ-xá-phù Như Lai có tám vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ hai có bảy vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán; hội thuyết pháp thứ ba có sáu vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Câu-lưu-tôn Như Lai thuyết pháp một hội có bốn vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thuyết pháp một hội có ba vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Phật Ca-diếp thuyết pháp một hội có hai vạn Bí-sô đắc quả A-la-hán.

“Hiện nay, Ta thuyết pháp một hội có một ngàn hai trăm năm mươi Bí-sô đắc quả A-la-hán.”

Thế Tôn lập lại bằng kệ:

Tỳ-bà-thi Như Lai,  
Thi-khí, Tỳ-xá-phù,
Thế Tôn Câu-lưu-tôn,   
Câu-na-hàm, Ca-diếp,
Và Thích-ca Mâu-ni.     
Khi chư Phật ra đời,
Chúng Thanh văn được độ,      
Số có bảy mươi ức,
Chín vạn thêm ba ngàn,     
Hai trăm năm mươi người,
Đều chứng A-la-hán,    
Không tái sinh đời sau.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, cho đến, nay Ta xuất hiện ở thế gian, trụ trì giáo hóa, nêu giảng giáo pháp, giáo hóa, dẫn dắt các hữu tình, về giới hạnh luật nghi, thọ trì y bát, cầu chứng Bồ-đề, không có pháp nào sai khác nhau cả.”

Thế Tôn nói kệ:

Kiếp quá khứ đến nay,  
Tỳ-bà-thi các Phật;
Chúng Bí-sô được độ,   
Thành tựu đại trí tuệ.
Dốc tu nơi Chánh đạo, 
Các phần pháp Bồ-đề;
Năm căn và năm lực,    
Bốn niệm, bốn thần túc.
Bảy giác, tám thánh đạo,    
Cùng với Tam-ma-địa;
Các căn được tịch tĩnh,      
Thông đạt nơi pháp tạng.
Khai ngộ các quần sinh,     
Tuệ mạng được tăng trưởng;
Trong hiền kiếp như vậy,    
Thật là chưa từng có.
Phật dùng trí đại bi,
Tự giác và giác tha;
Đại thần thông uy đức, 
Được nêu bày như vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, cùng các Bí-sô rời chỗ ngồi, trở về vườn Cấp Cô Độc.

Qua đêm ấy, đến sáng sớm hôm sau, các chúng Bí-sô rời thất của mình, đi đến đạo tràng Ca-lý-lê. Họ hỏi nhau về việc các đức Như Lai trong thời gian quá khứ nhập đại Niết-bàn, xa lìa hý luận, đoạn trừ hẳn luân hồi, không còn lỗi lầm. Bậc đại trượng phu như vậy, có đại trí tuệ như vậy, trì giới như vậy, thiền định như vậy, giải thoát như vậy, uy đức như vậy, chủng tộc như vậy, giáng thế lợi sinh, thật ít có, không thể nghĩ bàn.

Thế Tôn biết ý nghĩ của các Bí-sô, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến đạo tràng Ca-lý-lê, ngồi kiết già, hỏi chúng Bí-sô:

“Các Thầy bàn luận về việc gì?”

Các Bí-sô bạch:

“Chúng con nghe nói Đức Như Lai trong quá khứ nhập đại Niết-bàn, xa lìa các hý luận, cắt đứt luân hồi, không còn lỗi lầm. Bậc đại trượng phu như vậy, có trí tuệ như vậy, trì giới như vậy, thiền định như vậy, giải thoát như vậy, uy đức như vậy, chủng tộc như vậy, giáng thế lợi sinh, rất là ít có, không thể nghĩ bàn.”

Phật hỏi:

“Này các Bí-sô! Tại sao các Thầy nói những điều như thế?”

Bí-sô bạch Phật:

“Phật có pháp giới thanh tịnh, chứng Chân giác trí, hiểu biết tất cả, ngưỡng mong giảng giải.”

Phật dạy:

“Này các Bí-sô! Các Thầy lắng nghe, Ta sẽ nói về việc ấy.

“Vào thời quá khứ, có quốc vương lớn hiệu Mãn-độ-ma; Vương phi của vua tên Mãn-độ-ma-đế. Khi ấy, Phật Tỳ-bà-thi từ cung trời Đâu-suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù, nhập vào bụng mẹ, an trú trong thai, phóng ra ánh sáng chiếu khắp các cõi trong thế gian, không còn chỗ tối tăm, đến cả các cảnh giới ác, địa ngục, nơi ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu tới. Ánh sáng của Phật đến đâu, nơi ấy bỗng sáng rực lên. Hữu tình ở những nơi ấy được trông thấy nhau, liền lên tiếng: Tại sao ở đây lại có chúng sanh khác?”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát từ Đâu-suất, 
Khi xuống cõi Diêm-phù;
Như mây bay gió thổi,  
Nhanh chóng vào thai mẹ.
Thân phóng ánh sáng lớn,  
Chiếu rực cõi trời người;
Địa ngục núi Thiết vi,   
Đều không còn tối tăm.
Tất cả chúng đại tiên,   
Các cảnh giới cõi Phật;
Đều tập hợp nhau lại,   
Hộ vệ thân mẹ ngài.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các thầy lắng nghe. Khi Đại Bồ-tát ấy từ trời Đâu-suất giáng sinh xuống Diêm-phù, vào thai mẹ, Dạ-xoa Bộ-ma lớn tiếng tuyên bố: Vị Đại Bồ-tát có uy đức lớn, bậc đại trượng phu này, bỏ thân Trời, thân A-tu-la, ở trong thai mẹ để thọ thân người. Lần lượt trời Tứ thiên vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma cho đến các cõi trời Phạm phụ v.v... nghe lời này, đồng xướng lên: Bồ tát giáng thần ở trong thai mẹ, tất cả phải vân tập đến.”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát từ Đâu-suất, 
Khi giáng thần thai mẹ;
Đại Dạ-xoa Bộ-ma, 
Tuyên bố: đức Bồ-tát.
Từ bỏ thân cõi trời, 
Và thân A-tu-la;
An trú trong thai mẹ,    
Để thọ báo thân người.
Tứ thiên, Đao-lợi thiên,
Dạ-ma và Đâu-suất;
Cho đến cõi Phạm thiên,    
Đều nghe rõ việc này.
Bồ-tát xuống nhân gian,     
Thân sắc vàng vi diệu;
Chư Thiên đều tập hợp,
Tâm ý rất vui mừng.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe: Khi Đại Bồ-tát ấy từ trời Đâu-suất giáng sinh xuống Diêm-phù, có bốn Đại thiên tử đầy đủ uy đức, thân mặc áo giáp, tay cầm cung đao, hộ vệ Bồ-tát, loài người và phi nhân đều không thể gây tổn hại.”

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh,   
Đế Thích, trời Đao-lợi;
Sai Tứ đại thiên vương,
Đều đủ đại uy lực.
Thân mang áo giáp vàng,   
Tay cầm cung đao thương,
Luôn luôn hộ vệ ngài;   
Loài La-sát, phi nhân.
Không dám gây não hại,     
Ngài an trú thai mẹ;
Như ở cung điện lớn,    
Thường thọ các diệu lạc.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy từ cõi trời Đâu-suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù, ở trong thai mẹ; thân ngài thanh tịnh tỏa ánh sáng rực rỡ như ngọc Ma-ni; tâm ý mẹ ngài an vui không có phiền não.”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát ở trong thai, 
Thanh tịnh không vết nhiễm;
Trong sáng như lưu-ly, 
Quý báu như Ma-ni.
Ánh sáng chiếu thế gian,     
Như mặt trời không mây;
Thành tựu đệ nhất nghĩa,   
Xuất sinh trí tối thượng.
Khiến mẹ không ưu não,     
Thường làm các việc thiện;
Hữu tình đều quy ngưỡng,  
Ngự ngôi Sát-đế-lợi.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy từ trời Đâu-suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù, ở trong thai mẹ; chưa từng nghe người mẹ có dục nhiễm và tham đắm năm trần, sắc v.v...”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát ở trong thai, 
Khiến tâm mẹ thanh tịnh;
Không nghe tên nhiễm ô,    
Xa lìa tội năm dục.
Đoạn trừ gốc tham ái,  
Không có các khổ não;
Thân tâm thường an ổn,     
Luôn luôn được an lạc.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy từ trời Đâu-suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù ở trong thai mẹ; người mẹ tự thọ trì năm giới cận sự. Một, không sát sanh. Hai, không trộm cắp. Ba, không dâm dục. Bốn, không nói dối. Năm, không uống rượu. Mẹ Bồ tát sinh ngài nơi hông bên phải. Sau đó mệnh chung, sinh lên cõi trời.”

Thế Tôn nói kệ:

Bồ tát ở trong thai, 
Mẹ ngài giữ năm giới;
Hông phải sinh đồng tử,     
Khi sinh không khổ não.
Cũng như trời Đế Thích,    
Thọ năm dục vi diệu;
Sau đó, khi mạng chung,    
Liền sanh lên cõi trời.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông phải mẹ, quả đất chấn động. Thân ngài màu sắc như vàng ròng không có uế nhiễm, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả cảnh giới trong thế gian. Những cảnh giới ác, nơi tối tăm như địa ngục bỗng nhiên sáng rực. Những chúng sanh nơi đó cũng trông thấy nhau. Tất cả đều như ngỡ ngàng nói: Tại sao nơi đây lại có chúng sanh khác?”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ tát giáng sinh,   
Cả quả đất chuyển động;
Thân thể như vàng ròng,    
Không nhiễm những trần cấu.
Đại thần thông, uy đức,
Chiếu sáng khắp nơi nơi;
Chúng sinh nơi tối tăm,
Đều được nhìn thấy nhau.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, mẹ ngài không mệt nhọc, không ngồi không nằm. Bồ-tát với đại uy đức của bậc đại trượng phu, tâm không mờ tối, chân không đạp đất, có bốn Đại Thiên vương đỡ thân đồng tử.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh,   
Tâm mẹ không tán loạn;
Không ngồi cũng không nằm,   
Tự tại và vui thích.
Uy đức đại trượng phu,
Tâm lìa các ám muội;
Tứ thiên bồng chân ngài,    
Chân ngài không đụng đất.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, thân thể ngài thanh tịnh như ngọc lưu-ly quí báu không bị dính những vật bất tịnh như máu, mủ, nước dãi. Cũng như ngọc Ma-ni, như y phục của trời Kiều-thi-ca, tất cả bụi bặm không thể dính vào.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh,   
Thân thể ngài thanh tịnh;
Xa lìa những bất tịnh,   
Như máu mủ nước dãi.
Như y phục vua trời,     
Như ngọc quí Ma-ni;
Tâm sạch thân sáng rực,    
Bụi bặm không dính được.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, có hai vị Thiên tử từ trên hư không, tuôn hai vòi nước một mát, một ấm để tắm rửa đồng tử.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát  giáng sinh,   
Hai vị trời trên không;
Tắm rửa thân đồng tử, 
Bằng hai vòi nước sạch.
Ấm, mát cho thích nghi,
Biểu thị tròn phước tuệ;
Thành tựu đại vô uý,     
Xem khắp cả chúng sinh.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải; ngài đủ ba mươi hai tướng, hình dáng đoan nghiêm, mắt thanh tịnh thấy xa mười do-tuần.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát giáng sinh,   
Các tướng đều đầy đủ;
Mắt trong lại đoan nghiêm,
Thấy xa mười do-tuần.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, nhìn đến cõi trời Đao-lợi. Thiên đế Thích cũng thấy đồng tử này chính là thân Phật, liền cầm lọng trắng che thân đồng tử. Lạnh nóng gió bụi, tất cả các vật xấu không xâm phạm được.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ-tát mới sinh,
Nhìn xa hơn Đao-lợi;
Đế Thích cũng thấy ngài,    
Vội cầm lọng trắng lớn.
Đến che thân cho ngài, 
Lạnh nóng gió bụi nắng;
Và các thứ độc hại, 
Không thể xâm phạm được.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, mẫu hậu, nhũ mẫu và dưỡng mẫu cùng các cung nhân vây quanh để giữ gìn, che chở, tắm rửa, xoa chất thơm, hầu hạ ngài chu toàn.”

Thế Tôn nói kệ:

Khi đồng tử mới sinh,   
Ba người mẹ nuôi dưỡng;
Cùng với các cung nhân,    
Thường vây quanh bên ngài.
Tắm rửa xoa hương thơm, 
Khiến ngài luôn an ổn;
Hầu cận suốt ngày đêm,     
Không lúc nào rời ngài.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, hình dáng ngài đoan nghiêm đủ ba mươi hai tướng. Vua Mãn-độ-ma liền triệu vị thầy xem tướng đến xem tướng cho đồng tử. Vị Bà-la-môn ấy tâu: Nếu Ngài sống tại gia thì thọ pháp Quán đỉnh, giữ ngôi vị Chuyển luân vương, làm chủ cả thiên hạ, đủ ngàn người con uy đức không sợ hãi. Hàng phục các quân đội khác mà không cần đến binh đao cung kiếm. Nếu Ngài xuất gia tu hành chắc chắn thành bậc Chánh đẳng giác.”

Thế Tôn nói kệ:

Tướng sư Bà-la-môn,    
Xem tướng đồng tử này;
Tâu với vua cha rằng,  
Bậc đủ ba hai tướng.
Như trăng giữa muôn sao,  
Ít có trong thế gian;
Nếu ngài ở cung điện,   
Tất làm vua Chuyển luân.
Thống lĩnh cả bốn châu,     
Sinh một ngàn Thái tử;
Nếu xuất gia tu hành,   
Liền chứng Vô thượng giác.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, thân ngài màu vàng ròng, tướng mạo đoan nghiêm, như hoa sen mọc trong nước không dính bụi trần. Tất cả mọi loài chiêm ngưỡng ngài không chán. Âm thanh ngài nói ra dịu dàng nhỏ nhẹ thanh nhã lưu loát, như chim Ca-vĩ-la ở Tuyết sơn. Chim này rất thích ăn hoa, hót lên giọng thanh nhã dịu dàng. Chúng sinh nghe tiếng hót đều ưa thích. Âm thanh ngôn ngữ của đồng tử cũng vậy.”

Thế Tôn nói kệ:

Đồng tử lúc mới sinh,   
Thân thể màu vàng ròng;
Cũng như hoa sen hồng,     
Bụi trần không dính được.
Tiếng nói ngài thanh nhã,   
Như tiếng chim ca-vĩ;
Mọi người khi được nghe,  
Ưa thích không biết chán.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí-sô:

“Các Thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ-tát ấy còn là đồng tử đã xa lìa gian tà dối trá, tâm ý thuần chính, tự giác giác tha thường hành chánh pháp. Mọi người đều tôn trọng phục vụ như Thiên đế Thích tôn kính cha mẹ. Do đó, ngài tên là Tỳ-bà-thi.”

Thế Tôn nói kệ:

Tỳ-bà-thi Như Lai,
Khi còn là đồng tử;
Thông minh đại trí tuệ, 
Xa lìa sự dối trá.
Tự giác và giác tha,
Tu tập theo chính pháp;
Mọi người thường ái kính,
Như vị trời Đế Thích.
Kính phụng dưỡng cha mẹ,
Danh tiếng khắp thế gian;
Nên hiệu Tỳ-bà-thi,
Lợi ích cho chúng sanh.
Copyright @ 2014 - Edit by Kho Tàng Phật Học. Designed by Templateism | Support by Google - Blogger